| ||||
Phải chăng là con người không biết đâu là “thiện”, không biết đâu là “ác”? Hay là biết đâu là “thiện” nhưng không làm được, biết đâu là “ác” nhưng không tránh được? Có lẽ cả hai câu trên đều đúng: “thiện /ác” chưa chắc ǵ đă phân biệt được dễ dàng, và là một điều hết sức tương đối, như chúng ta đă đề cập đến. Và dù phân biệt được, lư trí con người chưa chắc ǵ đă thắng được những cái đam mê (passions), mà trong đạo Phật thường gọi là tam độc (tham, sân, si)... Theo nhà triết học Mỹ Nagel, các lư thuyết đạo đức có thể được phân chia ra làm 2 loại khác biệt: một bên là những lư thuyết “suy luận” (déductive), hay “độc đoán” (autoritariste) dựa trên những tiền đề (axiomes a priori) hoặc những điều tự nó hiển nhiên (évidents an soi), về tốt và xấu, điển h́nh là triết lư của Kant. Trong đó cũng có triết lư “vị lợi” (utilitaire), như của Bentham: việc “thiện” là việc làm lợi cho ḿnh và cho người khác, mang lại thú vui hay hạnh phúc cho ḿnh và cho người khác. Bên kia là những lư thuyết “qui nạp” (inductive), với sự từ chối mọi tiền đề siêu h́nh hoặc chủ thuyết. Chúng không có tính chất ép buộc, xơ cứng, mà ngược lại, cởi mở và có tính chất tiến hoá (évolutive). Như Spinoza, khi ông nói : “Chúng ta không thể nào biết được một cách chắc chắn cài ǵ tốt hay xấu, nếu không thực sự hiểu được sự vật…”. Như vậy, chỉ có trí tuệ mới giúp được con người phân biệt tốt/ xấu, thiện/ác. Thí dụ như khi được biết rằng con bọ ngựa (mantis religiosa) cái, ngay sau khi giao cấu với con đực (bé nhỏ hơn nhiều), giết ngay ông chồng ḿnh và ăn thịt nó một cách ngấu nghiến, th́ chúng ta lấy làm gớm ghiếc. Nhưng khi hiểu rằng con bọ ngựa cái làm như vậy để nuôi trứng của ḿnh bằng chất đạm cần thiết cho sự phát triển của chúng, th́ chúng ta thấy rơ ràng hành động tự nhiên của con bọ ngựa cái chỉ nhằm bảo tồn loài giống, chứ không có lư do ǵ khác. Bọ ngựa cái không “ác” v́ tội “giết chồng”, mà bọ ngựa đực cũng không là người cha “gương mẫu”, tự “hy sinh” cho đàn con ḿnh. Dù sao, sau 6 tiếng đồng hồ giao cấu, nó cũng kiệt sức và sớm muộn ǵ cũng chết, vậy th́ làm thức ăn bổ béo cho vợ con nó th́ cũng là một điều tiện lợi, phù hợp với nguyên lư tiết kiệm của thiên nhiên! Nh́n những ǵ xảy ra trong thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy không có “thiện” mà cũng không có “ác”. Thiên nhiên không hiền từ mà cũng không ác độc, không thiên vị mà cũng không lănh đạm. Bởi v́ nó không biết đạo đức là ǵ, đạo đức chỉ là những giá trị mà con người và xă hội tự đặt ra cho ḿnh. Trong thiên nhiên, tất cả những ǵ xảy ra đều là do sự “tất yếu” (nécessité), bởi v́ nếu không xảy ra như vậy, th́ sẽ không có như vậy, như vậy,… do luật tiến hoá chung của vũ trụ. Khoa học cho chúng ta biết rằng ngay trong cơ thể các sinh vật, trong các tế bào, đă có một hiện tượng gọi là apoptose, tức là sự chết có chương tŕnh (mort programmée) của các tế bào, dường như mỗi tế bào sinh ra đă mang trong ḿnh sự quy định về sự huỷ diệt của nó. Ngoài sự quy định đó ra, c̣n nhiều quy định khác nằm trong các gien di truyền, là nền tảng của các hormones và hệ thần kinh có tác động quyết định nên tập tính các động vật. Chẳng hạn như con ong thợ, khi làm những công việc như hút mật hoa mang về tổ, hay xả ḿnh quyết chiến với những kẻ thù muốn xâm nhập tổ ong để bảo vệ ong chúa, th́ nó không hề biết “thiện/ác” là ǵ, không hề biết hành động của ḿnh là một hành động hy sinh, quên ḿnh v́ tập thể. Nó chỉ thể hiện cái bản năng, cái “chương tŕnh” mang trong các gien của nó, và chương tŕnh đó chỉ nhằm một mục đích: bảo tồn ṇi giống. Con báo hay con rắn cũng vậy, khi chúng vồ hay cắn mồi, một con “nai vàng ngơ ngác” hay một “cánh chim bay về tổ ấm”, hành động đó cũng chỉ nhằm bảo tồn sự sống, theo quy định của thiên nhiên. Chỉ có con người mới đặt ra vấn đề “thiện/ác”, v́ đă mất tự nhiên và hồn nhiên... Trở về các triết lư đạo đức, th́ quan niệm của Socrate cũng không khác ǵ mất Spinoza, khi ông cho rằng “không có kẻ nào ác một cách cố t́nh” (nul n'est méchant volontairement). Hành động ác là do một lư do bất thường nào đó thúc đẩy. Khi hiểu được lư do đó, th́ người ta dễ thông cảm và tha thứ hơn. Và nếu hiểu rơ được ḿnh, người và sự vật, th́ người ta đă không làm ác. Do đó triết lư sống phải dựa lên trên sự hiểu biết. Mạnh tử cũng quan niệm rằng “nhân chi sơ tính bản thiện”, và Rousseau cho rằng chính xă hội làm hư hỏng con người, làm mất cái bản tính hồn nhiên hoang sơ của nó. Đạo Phật từ xưa đến nay vẫn đặt nền tảng vào trí tuệ. Trong những lời dạy của đức Phật trong kinh điển Pali, đức Phật luôn luôn dùng lư luận và ẩn dụ để dẫn mỗi đệ tử đi tới kết luận của chính ḿnh. Đạo đức của đạo Phật không có tính chất sơ cứng ép buộc, điển h́nh là khi nói đến Bát Chánh đạo, đức Phật không định nghĩa thế nào là chánh, thế nào là bất chánh. Và kinh Kalama cũng là một trong những lời dạy căn bản của đức Phật: hăy giữ tinh thần phê phán, hăy giữ tự do suy tư của ḿnh, đừng đi theo lời đồn đăi, lời truyền thống, lời dẫn giải của bất cứ ai, hăy theo kinh nghiệm của chính ḿnh mà tiến bước, tự ḿnh thấy điều tốt th́ theo, điều ǵ xấu th́ bỏ… Mặc dầu trong Phật giáo đôi khi có những truyền thống cứng nhắc (như giới luật, nghi lễ, hay thái độ đối với phụ nữ trong Bát Kỉnh Pháp), nhưng đó không phải là điều cốt yếu trong đạo Phật. Có hay không có những truyền thống đó, cũng không thay đổi ǵ trong sự phát triển và cách áp dụng đạo Phật trong đời sống hàng ngày. Theo tôi, nếu phải xếp loại theo quy Nagel, th́ tôi sẽ đặt triết lư đạo đức Phật giáo vào loại “qui nạp” (inductive), ngược lại với các tôn giáo khác. Tức là không có tính chất xơ cứng, giáo điều, bất di bất dịch, mà vẫn sẵn sàng mở rộng cho mọi phê b́nh, mọi tiến hoá. Đạo Phật nguồn gốc đă như vậy rồi, nhưng với tinh thần Bát Nhă của Đại thừa, với sự phân biệt tục đế và chân đế, với tánh Không vào tinh thần Thiền tông th́ điều đó lại rơ ràng hơn nữa. Có lẽ đó cũng là một nơi gặp gỡ giữa Phật giáo và khoa học. Dĩ nhiên khoa học tự nó không có đạo đức, nhưng các nhà khoa học, các cộng đồng khoa học, trong khi áp dụng sinh học vào đời sống, nhiều khi gặp phải những vấn đề đạo đức, và bắt buộc phải giải quyết những vấn đề này ngoài khuôn khổ của tôn giáo. Thí dụ như những vấn đề này ngoài khuôn khổ của tôn giáo. Thí dụ như những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique) đặt ra trong cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 này: ngừa thai, thụ thai trong ống nghiệm, ghép bộ phận, kiến tạo di truyền, sinh sản vô tính,v.v. Những bước tiến của khoa học- kỹ thuật, những thay đổi của xă hội, bắt buộc các nhà khoa học phải áp dụng một triết lư đạo đức uyển chuyển, cởi mở, với khả năng sửa đổi , phê b́nh, và đặt lại vấn đề mới xuất hiện, với những dữ kiện mới, trong một khung cảnh văn hoá mới. Đó là cái mà nhà thần kinh sinh học Pháp J.P.Changeux gọi là “đạo đức từng bước nhỏ” (éthique des petits pas). Một nền đạo đức không thần khải, không siêu h́nh, không lư thuyết, không cố định, v́ phải luôn luôn được xây dựng từng bước một, để phù hợp với thực tế. Siêu việt “ thiện/ác” không có nghĩa là coi “thiện/ác” như nhau, là chủ trương thế nào cũng được, và con người muốn làm ǵ cũng được trong xă hội. Trong một xă hội, một đoàn thể, phải có những giá trị đạo đức, những mốc, những tiêu chuẩn để quy định nhưng lề luật cuộc sống. Nhưng đèn đỏ, những bảng stop để tránh những va chạm, những đụng độ làm mất hoà khí giữa nhau. Thiện và ác là những giá trị đạo đức, cũng như tiền bạc, hàng hoá là những giá trị kinh tế đă được quy định giữa những con người, không thể thiếu sót được, tuy biết rằng đó chỉ là những quy ước tương đối và tạm bợ. Siêu việt “thiện/ác” là vượt lên khỏi “thiện/ác”, không c̣n bị vướng mắc, bận tâm về vấn đề đó nữa, bởi v́ việc thiện đă trở thành tự nhiên rồi, khi đi đứng nằm ngồi, từ thân khẩu ư sinh ra đều là hành thiện, đều gây nghiệp tốt, nghiệp lành. Những người siêu việt được “thiện/ác” như vậy – có thể gọi là đă giác ngộ- quả là hiếm hoi, muôn người chưa có một. Phải tu tâm dưỡng tánh bao nhiêu năm trời (hay bao nhiêu kiếp sống?) mới được như vậy. Nhưng tôi tin rằng con người tầm thường cũng có thể, trong nhưng giây phút nào đó, siêu việt được “thiện/ác”. Nếu sống thật trong hiện tại, một cách hồn nhiên, giản gị, không tiếc ǵ, cầu ǵ, lo ǵ, muốn ǵ… Rốt cục, “ thiện/ác” cũng là ở cái tâm của ḿnh Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng tỏ ra là một người hiểu sâu xa đạo Phật khi ông kết luận: “Thiện căn ở tại ḷng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Trần Kim Trọng giải thích là cái tâm của nhà Phật bao hàm thống nhất được cả ba phương diện của đạo Nho là tam tài: thiên, địa, nhân). Đối với tôi, người Phật tử phải vừa một đằng hướng thiện một cách tự nhiên, trau dồi cái thiện tâm và thiện cảm (empathie) của ḿnh đối với mọi người, mọi sinh vật, vừa một đằng khác giữ một cái nh́n sáng suốt, siêu việt thiện/ác. Phải hiểu ḿnh, hiểu người, hiểu những qui luật của thiên nhiên để đừng bị dằn vặt bởi những mâu thuẫn nội tâm và những vướng mắc do lối nh́n nhị nguyên, xa rời thực tế và chỉ cản trở sự tu học của ḿnh. Source:SiĂªu việt thiện - Ă¡c - ChĂºngTa.com |
![]() |
Thread Tools | |
Display Modes | |
| |